Các loài và sự phân bố của chim yến trên thế giới

Các loài và sự phân bố của chim yến

Các loài và sự phân bố của chim yến như thế nào bạn có biết? Nếu bạn nắm được những thông tin này, bạn sẽ trở nên thông thái hơn trong việc lựa chọn tìm mua tổ yến chất lượng. Cùng tìm hiểu nhé:

Các loài và sự phân bố của chim yến

Môi trường sống và sinh sản của chim yến môi trường sống của chim yến cần điều kiện môi trường. Trước hết hang làm tổ cần tối hoàn toàn, độ ẩm khoảng 90%, nhiệt độ 28 ~ 30 ℃.

Chim yến trong các môi trường sống nhiệt đới như Indonesia, Malaysia, Tây Á, Việt Nam, Thái Lan, v.v., giao phối trong không khí và trong tổ của chúng. Ở khu vực này, chim yến đực và chim cái xây tổ cùng nhau khoảng 30 ngày trước khi sinh sản, và mất khoảng 30 ngày.

Tháng 4, 8 và 12 là thời kỳ sinh sản cao điểm của chim yến. Một cặp chim yến trong năm có thể đẻ 3 quả trứng, mỗi lần 2 quả, thời gian nở của trứng khoảng 20 ngày. Sau khi chim con nở, chim trống và chim mái sẽ kiếm ăn cùng nhau. Sau khoảng 40 ngày chim non có thể tự bay đi kiếm ăn và tìm nơi sinh sống khác. Tổ yến ban đầu không dùng nữa, chim con bay đi xa tổ Nó mất khoảng 90 ngày.

Các loài và sự phân bố của chim yến
Các loài và sự phân bố của chim yến

Các loài và sự phân bố của chim yến trên thế giới

Chim yến sản xuất yến sào thuộc chi Aerodramus của họ Chim yến (Apodidae) thuộc bộ Apodiformes, và hầu hết các tổ yến sào theo nghĩa truyền thống là từ tổ được tạo ra bởi quần thể Chim yến Java (Aerodramus fuciphagus). Chim yến Java xây tổ bằng cách đông đặc nước bọt của chúng để tạo thành Tổ chim trắng nhất. Loại còn lại là đại yến (Aerodramus maximus) sinh ra tổ đen (Blacknest). Thứ ba là loài yến bụng trắng (Collocalia esculenta), chúng tạo tổ lẫn với rêu. Tổ yến ăn được chủ yếu được sản xuất ở các nước Đông Nam Á và các nước có sản lượng lớn hơn bao gồm Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam và Myanmar.

Java Swiftlet phân bố ở Indonesia từ tây Ấn Độ Dương đến các quốc đảo Nam Á, Palawan ở Philippines, bắc Úc, New Guinea và quần đảo Tây Nam Thái Bình Dương. Ngoài ra, chim yến Java cũng đã được báo cáo ở quần đảo Andaman và Nicoban ở Ấn Độ Dương và đảo Hải Nam ở nước tôi. Ở nước tôi, loài yến lớn phân bố ở biên giới giữa khu tự trị miền nam Tây Tạng và Bhutan. Một số lượng nhỏ tổ yến Java đã được tìm thấy trong các hang động của đảo Dazhou, tỉnh Hải Nam. Do bị thu hái quá nhiều, quần thể đã bị Các nghiên cứu tăng sinh nhân tạo bảo tồn đã được tiến hành.

Java Swiftlet (Aerodramusfuciphagus)

Swift gia đình Swiftlet. Phần trên màu nâu sẫm, đỉnh đầu, cánh và lông đuôi sẫm màu hơn. Các đốm thắt lưng nhạt hơn, phần dưới màu nâu xám và phần gốc hơi nhạt hơn các phần khác. Đuôi hơi chẻ đôi, cánh dài và hẹp. Mỏ và bàn chân có màu đen. Chiều dài cơ thể là 110-120 mm và trọng lượng là 15-18 gram. Có khả năng định vị bằng tiếng vang. Yến sào thuộc 6 loài phụ của Java Swiftlet là yến sào ăn được.

Swiftlet (Aerodramusgermani)

Nó thuộc họ Swiftlet, còn được gọi là “Go’s Swiftlet”. Chim yến eo sáng có thân trên màu nâu sẫm, đỉnh đầu, cánh và lông đuôi có màu sẫm hơn. Các đốm trên đầu bao nhạt hơn; phần dưới có màu nâu xám và phần đầu có màu nâu hơi sẫm. Chiều dài cơ thể khoảng 120 mm. Swiftlet phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á, bao gồm bán đảo Mã Lai và bán đảo Đông Dương, ngoài ra còn phân bố ở Trung Quốc.

Chúng sống bên ngoài hang động và thường bay qua rừng ngập mặn và rừng cao su. Ăn côn trùng, suốt ngày bay dọc bờ biển và hải đảo để săn côn trùng bay, ít khi nghỉ ngơi. Chúng không thể quay ngoắt như chim én khi bay, vì lông đuôi không được chẻ đôi.

Có 3 phân loài của Swiftlet: Aggermani, Agamechanus và Agbrevirostris. Phân loài đầu tiên, Aggermani, từng được cho là cùng loài với yến Java, nhưng hiện nay thường được coi là một loài riêng biệt.

Chim ưng lớn (Aerodramus maximus)

Nó thuộc họ Swiftlet, còn được gọi là “Black Nest Swiftlet”. Bộ lông của Great Swiftlet có màu nâu đến đen ở phần thân trên với ánh vàng, và phần thân dưới có màu xám hoặc trắng tinh. Cành mỏng và cong xuống, cánh dài nhọn, bàn chân ngắn và mỏng, bốn ngón hướng về phía trước, không thích hợp để đi và cầm cành mà chỉ thích hợp với mặt đứng của đá.

Phần thân của chúng hoàn toàn trần trụi hoặc gần như hoàn toàn trần trụi, phần lông đuôi cũng không trần trụi. Nhìn chung, chúng là những loài chim nhẹ nhàng và nhanh nhẹn, có kích thước nhỏ hơn chim én trong chuồng, trọng lượng nhẹ hơn, ở con đực và con cái tương tự nhau.

Greater Swiftlet được tìm thấy ở Brunei, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và các khu rừng trên núi, chúng sống thành từng nhóm.

The Great Swiftlet The Great Swiftlet có thể bay tự do trong hang tối bằng cách định vị bằng tiếng vang giống như một con dơi. “Sonar” của nó có thể được nghe bằng tai người và bao gồm các âm thanh “nhấp chuột” với tần số 1500-5500 Hz, khoảng 6 lần mỗi giây. Tổ của đại yến là một cái ổ nhỏ, đôi khi có một chút lông và vỏ cây dương xỉ, có thể bám vào thân cây hoặc vách đá, nhưng thường được xây dựng trong hang hoặc hốc ven biển. Một đàn chim có thể lên đến 1 triệu con.

Swiftlet Ấn Độ (Aerodramus unicolor)

Nó thuộc họ Swiftlet. Các đặc điểm chính là lưng màu nâu sẫm với bụng hơi nhạt, đuôi ngắn, hơi thụt vào trong. Phân bố chủ yếu ở tiểu lục địa Ấn Độ và tây nam Trung Quốc.

Chim yến eo xám nhỏ (Aerodramusfrancicus)

Nó thuộc họ Swiftlet. Các đặc điểm chính là lưng màu nâu sẫm với bụng hơi nhạt, đuôi ngắn, hơi thụt vào trong. Phân bố chủ yếu ở tiểu lục địa Ấn Độ và tây nam Trung Quốc.

Swiftlet bụng trắng (Collocalia esculenta)

Nó thuộc họ Swift, Pygmy Swiftlet. Lưng và thân của chim yến trắng bụng có màu xanh đen sáng. Đôi khi nó trông giống như toàn bộ cơ thể và vương miện có màu đen. Ngực màu đen, bụng và hai bên sườn màu trắng với những đốm đen ở mép. Đầu cánh tròn, cánh sau màu đen. Đuôi tròn với các đốm trắng ở các khía nông. Chiều dài thân xe từ 90 đến 115 mm, âm thanh như tiếng còi êm dịu. Chim yến trắng có bề ngoài tương tự như chim yến trắng (A. spodiopygius), nhưng có thể phân biệt bằng lưng và bụng. Chim yến bụng trắng làm tổ trong hang, bám vào một sợi cỏ giống như sợi dây với nước bọt sền sệt, làm tổ trên vách đá thẳng đứng của hang. Chúng bắt côn trùng bay trong rừng, suối, lạch và đường.

Swiftlet bụng trắng phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Đông Timo, Brunei, Đảo Christmas, Philippines, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, Vanuatu và New Caledonia, và là loài sống tự do ở Úc.

Swiftlet (Collocalialinchi)

Nó thuộc họ Swift, Pygmy Swiftlet. Chim yến có màu nâu sẫm sáng trên lưng và mào với ánh xanh lục, đôi khi xuất hiện màu đen trên toàn thân và đỉnh. Ngực màu đen, hai bên bụng màu xám nhạt, có đốm đen ở mép. Đầu cánh tròn và cánh sau màu đen. Đuôi màu đen với một khía nông hình tròn. Chiều dài thân máy từ 90 đến 115 mm, khả năng kêu gọi rất cao. So với yến trắng, yến hang không có đốm trắng trên lông, còn yến trắng có chùm lông phía sau nhưng các ngón chân của yến hang lại để trần. Swiftlet phân bố chủ yếu ở vùng Java Sunda của Indonesia, đảo Madura, đảo Maweian, đảo Ghanian, Nusa Penida, Bali, Lombok, Sumatra và Keena ở Sabah, Malaysia. Dốc phía tây của núi Baloo.

Bảo tàng Anh lưu giữ một mẫu tổ yến duy nhất từ ​​Malaysia, có nhãn “Melaka”. Môi trường sống của chim yến thường ở rừng thưa, khu vực phân bố bay cũng giống như các loài chim yến khác, thường bay quanh cành, tán. Trong các hang sáng hơn một chút, thảm thực vật và đá dính với nhau bằng nước bọt để tạo thành tổ, nói chung là đẻ 2 trứng, màu protein của chim én hơi mảnh. Chim yến không phải là loài chim có nguy cơ tuyệt chủng và Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) liệt nó là loài có “nguy cơ thấp” (Ít quan tâm nhất). Mặc dù dân số của chim yến có thể giảm nhẹ so với trước đây, nhưng tốc độ sinh sản của nó đã khiến nó không bị xếp vào danh sách những loài nguy hiểm.

Có 2 loài phụ của Swiftlet: Chim yến đảo Sumatra (Clripleyi), chuyên sản xuất tổ yến ăn được. Ngoài ra còn có CldediiSomadikarta phân bố ở Bali và Lombok, Indonesia.

Thức ăn và kẻ thù tự nhiên của chim yến

Chim yến ăn côn trùng và sử dụng định vị siêu âm trong khi bay để săn mồi đối với côn trùng bay trong không khí. Các loài côn trùng săn mồi chính bao gồm kiến ​​trưởng thành (Formicidae), Hymenoptera Chalcidoid và ong (Apidae), ruồi Diptera, bọ cánh cứng nhỏ Coleoptera (Coleoptera), Homoptera rầy chổng cánh (họ Cicadellidae), rầy chổng cánh (Delphacidae) và chuồn chuồn

Phù du. Thiên địch của Swiftlet chủ yếu là thằn lằn (Lacertilia), gián (Blattidae), mối (Termitidae), dơi (Chiroptera), cú (Strigiformes), đại bàng (Accipitrinae), rắn (Serpentiformes), tắc kè (Gekko), chuột (Muroidea)) , ve (Acari), v.v … Mối nguy chính của thiên địch bao gồm nuốt tổ yến, chim con và trứng; làm chim trưởng thành sợ hãi khiến chúng không thể định cư; tạo ra phân làm ô nhiễm tổ chim; Chiếm giữ tổ yến và xua đuổi chim yến .

http://www.yanwo115.com/chanpin/yanzhan/1023.html

Lời khuyên để tránh mua tổ yến giả

Tìm người bán uy tín và tin cậy nhất: Trăm người bán, vạn người mua, nghìn người bán tổ yến giả. Đối với người mới, đang có nhu cầu lựa chọn mua yến sào về sử dụng hay quà biết. Cách tốt nhất là tự trang bị cho mình kiến thức về các loại yến sàogiá yến sào hiện nay trên thị trường. Hoặc tìm cho mình người bán hàng có tâm, tuy có rủi ro nhưng đời mà, đâu có gì hoàn hảo.

Tìm hiểu thêm tin tức về tổ yến tại Yến Sào Thủ Đức
Tìm hiểu thêm tin tức về tổ yến tại Yến Sào Thủ Đức

Yến Sào Thủ Đức – Một thương hiệu uy tín tại Thành Phố Thủ Đức, TPHCM. Ngoài kinh doanh yến sào, tôi còn quản lý kênh truyền thông cộng đồng uy tín nhất tại TP Thủ Đức. Bạn hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào chúng tôi. Sự uy tín, tận tâm, chuyên nghiệp là những thứ mà tôi hướng đến.

Vậy là chúng ta vừa tìm hiểu về Các loài và sự phân bố của chim yến. Cách bảo quản để tổ yến không bị ẩm là gì? Mong rằng nội dung trẻ bị cảm ăn yến sào có được không trong bài viết này giúp bạn có thêm kiến thức về các loại yến sào trên thị trường, cách chưng yến, cách nhặt lông yến nhanh và các sản phẩm tổ yến sào cho người già.

Nếu còn bất kỳ thắc mắc hay cần tư vấn về yến sào vui lòng liên hệ với cửa hàng chúng tôi:

Contact Me on Zalo